Disciples who Make Disciples
Making Disciples-The Same Way Jesus Christ Did: INTENTIONALLY
MỘT CÁCH CÓ CHỦ Môn Đồ Hóa–Theo Cùng Cách Thức Mà Chúa Giê-xu Christ Đã Làm:ĐÍCH
Disciples who Make Disciples
Môn đệ hoá người làm môn đệ hoá
Does making disciples get any easier? The answer is yes, but only when you have discipled enough people whereby they in turn disciple others. Since disciple making is intentional, it never becomes automatic. But when you have a group around you that you have discipled and they have discipled others, you now have a team which creates a shift in thinking.
Việc môn đệ hoá có trở nên dễ dàng hơn không? Câu trả lời là có, nhưng chỉ khi bạn môn đệ hoá người khác đủ đầy để mà nhờ đó họ sẽ làm nhiệm vụ tương tự với người khác. Vì việc môn đệ hoá mang tính chủ đích, nên nó sẽ không bao giờ có thể tự động có. Nhưng khi xung quanh bạn là những người mà bạn môn đệ hoá và họ đi môn đệ hoá những người khác, thì bạn đã có một đội nhóm tạo ra sự thay đổi trong nhận thức về điều này.
Disciple making teams emphasize the ministry and the disciple making mandate of every believer. They are no longer dependent on preaching, programs, and praise and worship gatherings only; however there is an important place for these elements. A disciple making team is a group where the majority of people within the group see their lives through the lens of being disciples who make disciples. When this happens, existing members (who are not disciple makers) and new members will be more willing to join the mandate. Below are five elements of what a Disciple Making Culture looks like.
Những đội nhóm môn đệ hoá như vậy làm nổi bật lên nhiệm vụ của mỗi người tin Chúa về việc làm môn đệ hoá và nhiệm vụ cho Chúa. Họ sẽ không còn lệ thuộc vào các buổi giảng dạy, các chương trình đào tạo lên sẵn hay những buổi nhóm thờ phượng và ca ngợi; dù rằng nuhngwx việc đó vẫn đóng một vai trò quan trọng. Một đội nhóm làm nhiệm vụ môn đệ hoá là một tập hợp mà hầu hết mọi người trong nhóm sẽ nhìn nhận đời sống của họ thông qua việc trở thành môn đệ mà có thể đi môn đệ hoá người khác. Khi điều này xảy ra, những thành viên trong nhóm (không phải người đi gây dựng môn đệ) và những thành viên mới sẽ ý thức và sẵn lòng hơn trong việc tham gia sứ mệnh này. Dưới đây là năm nhân tố của thế nào là một văn hoá gây dựng môn đệ.
Life-on-life disciple making – Behind this expression is the focus of disciple making. It is how Jesus and the apostles made disciples. It is not focused on gatherings (worship) or classroom instruction (Bible Studies). These events will always be important, but the focus is the everyday lives of disciples. It is Monday through Saturday as they share their lives with a focus on being disciples who make disciples.
Làm môn đệ hoá trong đời sống cá nhân mỗi người - ý nghĩa này tập trung vào việc môn đệ hoá. Đó là cách mà Chúa Giê-xu và những sứ đồ đã môn đệ hoá những người khác. Việc đó không còn chỉ tập trung vào buổi nhóm họp hay những buổi giảng dạy Kinh thánh. Dù chúng vẫn còn rất quan trọng nhưng sự tập trung sẽ dành cho đời sống hàng ngày của những môn đệ. Điều này được thực hiện từ thứ hai đến thứ bảy khi họ chia sẻ đời sống cho nhau với sự tập trung vào việc trở thành môn đệ có thể môn đệ hoá người khác.
· Believers make disciples – The disciple making mandate becomes as highly valued as the ministry of believers.
Người tin Chúa tạo dựng môn đồ - sứ mệnh gây dựng môn đồ sẽ trở nên có giá trị cao lớn hơn như là một nhiệm vụ của những người tin Chúa.
To the fourth generation – 2 Timothy 2:2 And the things you have heard me say in the presence of many witnesses entrust to reliable people who will also be qualified to teach others. This verse becomes the expected pattern of life for each person in the group. Paul (1st generation) told Timothy (2nd generation) to find reliable people (3rd generation) who would in turn share the message of Jesus (4th generation). When this happens, it becomes the expected pattern for each member of the group; you now have a Disciple Making Culture.
Cho đến thế hệ thứ tư - 2 Ti-mô-thê 2:2 Những gì con đã nghe ta giảng trước nhiều nhân chứng, hãy truyền lại cho những người đáng tin cậy, để họ cũng có thể giảng dạy lại những người khác. Câu Kinh thánh này đã trở thành mẫu đời sống được mong đợi cho mỗi người trong đội nhóm. Phao-lô (thế hệ 1) sai bảo Ti-mô-thê (thế hệ 2) đi tìm những người đáng tin cậy (thế hệ 3), những người mà có thể giảng dạy thông điệp của Chúa cho những người khác (thế hệ 4). Khi điều này xảy ra, nó trở thành mẫu đời sống được kỳ vọng cho mỗi thành viên trong nhóm; và bạn đã có một văn hoá gây dựng môn đệ.
· Disciple making activity is regularly produced by each member of the team; no matter their function– As teams become more organized, it is easy to begin to act like professionals. The leader of any team may think their skill is so needed that they do not have the time to make disciples. Or the musicians may think the same thing. But this is not the situation in a Disciple Making Culture. Disciple Making becomes viral and is found in all the team members, no matter their function.
Việc gây dựng môn đệ thường xuyên được thực hiện bởi các thành viên trong đội nhóm; bất kể vai trò của mỗi người trong nhóm - Khi đội nhóm được tổ chức chặt chẽ hơn, việc thực hiện một cách chuyên nghiệp hơn sẽ trở nên dễ dàng. Nhóm trưởng của mỗi đội nhóm có thể nghĩ rằng kỹ năng của họ là rất cần thiết cho nhóm và rằng họ không có đủ thời gian để làm nhiệm vụ môn đệ hoá. Hay những người chơi nhạc cụ có thể có những suy nghĩ tương tự. Nhưng điều này không phải là điều xảy ra trong văn hoá gây dựng môn đệ. Việc môn đệ hoá trở nên thiết yếu, và mong muốn này được tìm thấy ở mọi thành viên, bất kể vai trò, chức năng của họ là gì trong nhóm.
· Disciple making naturally multiplies by adding new disciples (team members) or developing new teams consistently. Individuals are producing so many disciple making disciples that an army of disciple makers is being regularly created. Among this army are those with leadership gifts who develop new teams.
Môn đệ hoá sẽ tự nhiên được nhân rộng bằng việc liên tục thêm những môn đệ mới (thành viên mới) hay phát triển những nhóm khác. Mỗi cá nhân đang tạo ra những môn đệ đi gây dựng môn đệ và điều đó đồng nghĩa với việc một binh đội người đi gây dựng môn đệ đang được tạo ra. Trong binh đội đó sẽ là những nhừng có tài năng lãnh đạo, người sẽ phát triển đội nhóm của mình.